Bằng cách duy trì tỷ lệ nợ cao, các công ty niêm yết thậm chí còn gặp khó khăn trong việc trả lãi, chứ đừng nói đến việc trả gốc. Điều này được phản ánh trong thực tế là vào năm 2011, đặc biệt là trong quý đầu tiên của năm 2012, khả năng trả lãi (thu nhập trước lãi và thuế / lãi) của công ty đã giảm đáng kể. Phân tích chuyên sâu về những khó khăn tài chính của gần 700 công ty niêm yết. Tiến sĩ Nguyễn Trọng Nghĩa thuộc Viện nghiên cứu chính sách và phát triển cho biết, khả năng trả nợ ngắn hạn là một chỉ số quan trọng của sức khỏe của công ty, và nó có nhiều vấn đề cần phải gây ra. Ghi chú. . Nhìn chung, các công ty niêm yết tại Việt Nam đang gặp khó khăn trong việc trả nợ ngắn hạn. Tỷ lệ hiện tại và tỷ lệ nhanh chóng có xu hướng giảm trong những năm gần đây, và đã giảm mạnh trong hai quý vừa qua.
Mặc dù trung bình của các tỷ lệ thanh khoản này đã đạt đến tiêu chuẩn (tỷ lệ hiện tại> 2, tỷ lệ nhanh> 1). Tuy nhiên, qua phân tích của từng công ty, kết quả cho thấy thực sự có vấn đề với tính thanh khoản của các công ty niêm yết.
Trong năm 2011 và quý đầu tiên của năm 2012, theo tiêu chuẩn chỉ số thanh toán nhanh, gần 60% các công ty niêm yết có thể gặp vấn đề về thanh khoản và con số này trong chỉ số chi tiêu hiện tại đã tăng lên 70%. Ông Nghĩa nói: “Hàng tồn kho là nguyên nhân chính dẫn đến khó khăn về thanh khoản của công ty.” Câu nói này là chính xác, bởi vì một khi hàng tồn kho tăng mạnh, công ty sẽ bị mất cân đối thu nhập và chi tiêu. Sự thật cũng cho thấy khi nhu cầu chung của nền kinh tế giảm, hàng tồn kho là một vấn đề lớn đối với các công ty. So với năm 2011, số ngày tồn kho trong năm 2011 tăng mạnh (100 ngày) và số lượng công ty có hàng tồn kho vượt quá chiếm gần 45% tổng số công ty niêm yết được khảo sát, điều này phản ánh rõ ràng điều này. — Một yếu tố khác làm suy yếu tính thanh khoản của các công ty niêm yết là thời gian thu tiền thanh toán từ bán hàng chậm hơn rất nhiều, với 103 ngày trong năm 2011 và 75 ngày trong năm 2010 và thời gian thanh toán của người bán không nên tăng theo. Kết quả là, công ty bị mất số dư thanh toán. Trong những năm gần đây, số lượng các công ty có doanh thu và chi tiêu không cân đối là rất cao, khoảng 66% và có xu hướng tăng dần. Lãi suất tăng. Việc sử dụng đòn bẩy giúp công ty tăng lợi nhuận trong một doanh nghiệp thuận lợi.
Tuy nhiên, trong trường hợp tổng cầu yếu và hàng tồn kho khổng lồ, đòn bẩy tài chính quá mức là một mối đe dọa và lợi nhuận chỉ không thể giảm. Lợi nhuận, nhưng cũng có khả năng phá sản do phá sản. Tỷ lệ nợ của các công ty niêm yết rất cao, chiếm hơn 50% tổng tài sản, gấp đôi số tiền trong những năm gần đây. Điều này cho thấy các công ty Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào các khoản vay. Thông qua đòn bẩy, gần 60% các công ty niêm yết sử dụng các khoản vay cao hơn mức bảo lãnh và con số này gần đây đã tăng lên.
Tỷ lệ nợ rất cao. Các công ty niêm yết đang làm việc chăm chỉ để trả lãi, chứ đừng nói đến việc trả lãi. chủ yếu. Điều này được phản ánh trong thực tế là vào năm 2011, đặc biệt là trong quý đầu tiên của năm 2012, khả năng trả lãi của công ty (thu nhập trước lãi và thuế / lãi cho các khoản vay) đã giảm đáng kể. Xác suất công ty trả lãi rất thấp. Nó đã giảm từ 18% để ngăn nền kinh tế rơi vào bẫy thanh khoản. Các nhà kinh tế nói rằng chính phủ phải có biện pháp toàn diện để kích thích tổng cầu và giải phóng hàng tồn kho, sau đó từ 40% trong năm 2010 và 2011 70% trong quý đầu tiên của năm 2012 giảm xuống 70% trong quý đầu tiên của năm 2012. Có thể kích thích nhu cầu vay vốn.
Do đó, khóa học chính sách tài khóa phải theo đuổi mục tiêu miễn thuế và giảm thuế. Ví dụ, nên giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp xuống 20% để kích thích sản xuất và đầu tư, và nâng cao các mục tiêu trong các lĩnh vực bệnh truyền nhiễm như nông nghiệp, cơ sở hạ tầng và y tế xã hội. Nó cũng nên xem xét nới lỏng các điều kiện cho quyền sở hữu nước ngoài đối với tài sản để kích thích nhu cầu về tài sản (đặc biệt là bất động sản). Lợi nhuận của công ty đã thấp trong nhiều năm. Lợi tức đầu tư trung bình (ROIC) trong giai đoạn 2008-2011 chỉ khoảng 11,62%. Do đó, tỷ lệ huy động 8-9% mỗi năm là hợp lý, nhưng cần phải giảm lãi suất cho vay xuống khoảng 11-12% mỗi năm. Chính phủ cũng cần một chính sách để giúp các công ty tạm thời đáp ứng các điều kiện vay ngân hàng. Khuyến khích xuất khẩu và hỗ trợ mở rộng thị trường cho các sản phẩm trong nước, đặc biệt là hàng hóaMảnh đất này có một cổ phiếu lớn. Đồng thời, nó khuyến khích thành lập các sàn giao dịch hàng hóa và hỗ trợ phát triển thị trường chứng khoán và trái phiếu để các công ty có thể tăng vốn dài hạn với giá thấp hơn để cơ cấu lại cơ cấu vốn của họ. .
– Ngoài ra, chính phủ cần cung cấp hướng dẫn để giải quyết vấn đề nợ xấu trong hệ thống ngân hàng để giải quyết vấn đề thanh khoản và tăng khả năng cho vay của các ngân hàng. Do đó, cần phân loại các khoản nợ xấu theo các cách sau: thành lập một bộ phận độc lập, sau đó tổ chức đấu giá nợ công, tiếp tục sáp nhập và mua lại các ngân hàng yếu, để tăng tỷ lệ sở hữu nước ngoài trong các ngân hàng và doanh nghiệp. Quan trọng hơn, cần làm rõ các chức năng của hệ thống ngân hàng để các ngân hàng thương mại có thể được sử dụng làm tài trợ vốn lưu động.