Về thanh toán, nhìn chung, các nhà quản lý vẫn tỏ ra thận trọng khi triển khai mô hình này.
Mô hình Hợp tác Ngân hàng – Viễn thông (Mô hình Đối tác)
Trong mô hình này, các ngân hàng, công ty viễn thông và nhà cung cấp giải pháp hợp tác cùng nhau để cung cấp các sản phẩm thanh toán nhằm đảm bảo sự thâm nhập rộng rãi và thuận tiện vào cơ sở người dùng di động , Đồng thời duy trì quản lý tài chính chặt chẽ của ngành ngân hàng.
Theo mô hình này, ngân hàng sẽ đóng vai trò quản lý tiền mặt và thanh quyết toán giao dịch, trong khi quản lý rủi ro, công ty di động chịu trách nhiệm kinh doanh, giao dịch trực tiếp với khách hàng, cửa hàng bán lẻ và dịch vụ khách hàng.
Theo dự báo của Hiệp hội GSM thế giới, đến năm 2012, trên thế giới sẽ có 1,2 tỷ người sở hữu điện thoại di động nhưng không có tài khoản ngân hàng, chủ yếu ở các nước đang phát triển ở Châu Á, Nam Mỹ và Châu Phi. Trên thị trường nói trên, phương thức hợp tác giữa ngân hàng và viễn thông là sự kết hợp ưu điểm của hai phương thức trên, và vì những ưu điểm mà nó mang lại nên đã trở thành xu hướng chung:
– có thể làm giải pháp thanh toán với nhiều khách hàng của công ty viễn thông Lên kế hoạch chuyển dịch vụ mà khách hàng chưa từng sử dụng sang dịch vụ tài khoản ngân hàng.
– Các công ty viễn thông cung cấp cho khách hàng các dịch vụ tài chính bổ sung và được ngân hàng hỗ trợ về giải pháp tài chính, khả năng quản lý giao dịch và giảm thiểu rủi ro. So với giao dịch ngân hàng truyền thống, có một kênh thanh toán an toàn hơn, tiện lợi hơn và chi phí thấp hơn.
– Nhà cung cấp giải pháp hỗ trợ các ngân hàng và công ty viễn thông trong việc kết nối hệ thống, xử lý giao dịch và hỗ trợ các chuyên gia, giảm đầu tư toàn xã hội.
– Cơ quan quản lý ngân hàng đảm bảo vai trò quản lý nhà nước thông qua các luật và quy định hiện hành trong hệ thống. Các ngân hàng tham gia cung cấp dịch vụ.
Việt Nam áp dụng mô hình nào?
Với dân số hơn 80 triệu người, chỉ có khoảng 12 triệu người có tài khoản ngân hàng (tương đương 15% dân số) và khả năng bao phủ ngân hàng cá nhân còn kém. Hiện cả nước và quốc gia có xấp xỉ 17 triệu chủ thẻ nhưng thanh toán bằng tiền mặt vẫn đóng vai trò quan trọng trong các giao dịch bán lẻ. Người dân và các công ty cung cấp hàng hóa, dịch vụ chưa quen với việc sử dụng thẻ ngân hàng để thanh toán nên việc thanh toán bằng thẻ qua điểm bán hàng vẫn còn một số bất cập.
Tại Việt Nam hiện có 7 nhà cung cấp dịch vụ viễn thông di động đang hoạt động phủ khắp các vùng miền trên cả nước. Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, số lượng người dùng điện thoại di động tại Việt Nam trong tháng 11 đạt 80 triệu người, bình quân mỗi người đều có một thuê bao di động. Việc sử dụng điện thoại di động không chỉ phổ biến ở giới trẻ hay ở thành thị mà còn ở mọi đối tượng. Có thể nói, Việt Nam là thị trường có tiềm năng rất lớn để tận dụng dịch vụ thanh toán di động.
Việt Nam có hơn 50 ngân hàng đang hoạt động và tham gia vào lĩnh vực ngân hàng bán lẻ. Các ngân hàng cạnh tranh gay gắt bằng cách liên tục cải tiến và tung ra các sản phẩm dịch vụ mới trong đó có sản phẩm ngân hàng di động (mô hình do ngân hàng dẫn đầu). Tuy nhiên, các sản phẩm do ngân hàng cung cấp chỉ dừng lại ở một số chức năng nhất định, chưa thể đáp ứng hết nhu cầu thanh toán của khách hàng. Cùng với đó, nhiều sản phẩm ví điện tử đã ra đời nhưng chỉ hỗ trợ giao dịch thanh toán qua Internet, còn thị trường thanh toán di động vẫn còn rộng mở.
Trong trường hợp này, đề xuất cung cấp giải pháp thanh toán di động không qua ngân hàng cho những khách hàng không có tài khoản ngân hàng. Một tài khoản ngân hàng là điều cần thiết. Điều này sẽ giúp tạo ra các ứng dụng thanh toán thuận tiện cho khách hàng, từ đó mang lại lợi ích to lớn cho các nhà cung cấp dịch vụ di động, đồng thời góp phần thúc đẩy xu hướng không sử dụng tiền mặt, giảm chi phí xã hội và góp phần phát triển kinh tế.
(Nguồn: Công ty Cổ phần Dịch vụ Thẻ Smartlink)